BỘ TƯ PHÁP
VỤ PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
__________________________
|
BỘ NỘI VỤ
BAN THI ĐUA - KHEN THƯỞNG
TRUNG ƯƠNG
__________________________
|
TÀI LIỆU GIỚI THIỆU, PHỔ BIẾN
LUẬT THI ĐUA, KHEN
THƯỞNG NĂM 2022
Luật Thi đua, khen thưởng được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày
15/6/2022. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2024. Theo đó, Luật được ban
hành với những nội dung cơ bản như sau:
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT
1. Cơ sở chính trị
Ngày 07 tháng 4 năm 2014, Bộ Chính trị đã ban hành
Chỉ thị số 34-CT/TW “Về tiếp tục đổi mới
công tác thi đua, khen thưởng”, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện
phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế.
Ngày
15 tháng 5 năm 2016, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh
“Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, tiếp tục làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh
thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ngày 07 tháng 02 năm 2017, Văn phòng Trung ương có Văn bản số 3257-CV/VPTW thông báo Kết luận của Ban Bí
thư, trong đó có nội dung “Đề nghị Ban Cán sự đảng Chính phủ khẩn trương chỉ
đạo Chính phủ nghiên cứu, đề xuất trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Thi đua,
khen thưởng cho phù hợp tình hình mới”
và chủ trương tặng thưởng “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” cho
đối tượng là thanh niên xung phong tham gia kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày
04 tháng 12 năm 2020, Văn phòng Trung ương Đảng có Văn bản số 13843-CV/VPTW
thông báo Kết luận của Ban Bí thư, trong đó có nội dung giao: “Ban cán sự đảng
Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo tổng kết công tác khen thưởng thời kỳ kháng chiến
(hoàn thành và báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong năm 2021)”.
2. Cơ sở thực tiễn
Luật Thi đua, khen
thưởng được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI (kỳ họp
thứ 4) thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm
2004. Luật Thi đua, khen thưởng (sau
đây gọi tắt là Luật) đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2005 và năm 2013 là văn bản có giá trị pháp lý quan trọng để
triển khai thực hiện công tác thi đua, khen thưởng. Sau 17 năm thực hiện, Luật
đã và đang đi vào cuộc sống, được các cấp, các ngành tổ chức thực hiện có hiệu
quả, công tác thi đua và khen thưởng ngày càng có vị trí quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và trong đời sống xã hội. Các phong trào
thi đua yêu nước thời gian qua đã có đổi mới về nội dung, hình thức, thiết thực
và hiệu quả hơn. Các cấp ủy, tổ chức Đảng, lãnh đạo chính quyền các cấp đã có
sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phong trào thi đua; Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội đã chủ động tổ chức các phong trào thi đua thu
hút, tập hợp đông đảo đoàn viên, hội viên và Nhân dân tham gia hưởng ứng. Công tác phát
hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến được quan tâm và có
chuyển biến rõ nét. Công tác khen thưởng đã có tác dụng động viên, cổ vũ các tổ
chức, cá nhân có thành tích tiêu biểu, xuất sắc trong phong trào thi đua. Công
tác phát hiện và đề nghị khen thưởng cấp Nhà nước cho các trường hợp có
thành tích đột xuất, người trực tiếp lao động, sản xuất, công tác, chiến đấu; cá
nhân, tập thể ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo đã được triển khai.
Công tác khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến được tập trung thực hiện.
Việc áp dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa
quản lý công tác thi đua, khen thưởng đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về thi đua, khen thưởng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Luật còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần
được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để phù hợp hơn với thực tiễn.
Thứ nhất, về công tác
thi đua
Việc tổ chức
triển khai phong trào thi đua ở một số nơi còn hình thức,
chưa tạo được động lực thi đua từ cơ sở, từ quần chúng Nhân dân, hiệu quả, tác
dụng phong trào thi đua chưa cao; một số nơi phong trào thi đua chưa gắn kết
với thực hiện nhiệm vụ chính trị, việc sơ kết,
tổng kết phong trào thi đua chưa kịp thời. Nội dung, tiêu chí xét tặng danh hiệu
thi đua và việc công nhận danh hiệu thi đua chưa thống nhất; chưa quy định
rõ trách nhiệm của Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, đơn vị, cơ sở trong chỉ
đạo, triển khai tổ chức phong trào thi đua theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính
trị.
Thứ hai, về công tác
khen thưởng
Luật có đối tượng điều chỉnh rộng, liên quan
đến toàn bộ hệ thống chính trị nhưng điều kiện, tiêu chuẩn khen thưởng chưa bao
quát hết các đối tượng và người trực tiếp lao động, sản xuất, công tác, chiến
đấu nên tác dụng khen thưởng chưa cao. Năm 2013, khi sửa đổi, bổ sung Luật đã
có quy định điều kiện, tiêu chuẩn để khen thưởng cho công nhân, nông dân, người
lao động trực tiếp nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện vẫn còn nhiều khó
khăn, vướng mắc. Một số quy định về tiêu chuẩn khen thưởng chưa cụ thể, khó áp
dụng với một số đối tượng thuộc các lĩnh vực khu vực ngoài nhà nước, phải điều
chỉnh bằng các văn bản dưới Luật như Nghị định, Thông tư.
Công tác
phát hiện và khen thưởng đối với các tập thể, cá nhân lập được thành tích đột
xuất chưa kịp thời. Luật hiện hành quy định các hình thức khen thưởng cấp nhà
nước và các hình thức khác thuộc thẩm quyền của các cấp, các ngành. Tuy nhiên,
trên thực tế việc quy định thẩm quyền khen thưởng, phân cấp, phân quyền trong
khen thưởng chưa đầy đủ, chưa bao quát được hết các khu vực, đối tượng; tỷ lệ
khen thưởng cấp nhà nước chưa cân đối trong từng lĩnh vực, đối tượng, tập trung
chủ yếu vào khen niên hạn, khen công chức, viên chức, lực lượng vũ trang. Một
số chủ trương, quy định của Đảng về công tác khen thưởng chưa được thể chế hóa
kịp thời.
Thứ ba, về thủ tục, hồ
sơ khen thưởng
Một số quy định về
thủ tục, thành phần, số lượng hồ sơ chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách hành
chính; quy định thủ tục, hồ sơ khen thưởng đối với cá nhân, tập thể có thành
tích đột xuất được cấp trên phát hiện, khen thưởng và một số loại hình khen
thưởng chưa phù hợp.
Việc ứng dụng công
nghệ thông tin trong công tác thi đua, khen thưởng chưa được quy định cụ thể,
đồng bộ để đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và chuyển đổi số quốc gia.
Với các căn cứ nêu
trên, việc xây dựng, trình Quốc hội dự
án Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi) là cần thiết, nhằm
thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, các
nội dung chỉ đạo của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư; khắc phục những tồn
tại, hạn chế của Luật hiện hành và quá trình tổ chức
thực hiện Luật, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, đáp
ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
I. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU CỦA LUẬT THI ĐUA, KHEN
THƯỞNG
Luật Thi đua, khen thưởng năm
2022 đã bảo đảm mục tiêu thể chế hóa kịp thời, đầy đủ chủ trương, đường lối của
Đảng về “tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”; đồng bộ hóa các quy
định pháp luật; khắc phục những tồn tại của Luật hiện hành; tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước và công tác khen
thưởng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội
nhập quốc tế.
Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022 đã thể chế
các quan điểm, định hướng đổi mới công tác thi đua, khen thưởng của Đảng vào 04 phương
án chính sách xây dựng dự án Luật đã được Chính phủ thông qua. Trong đó, tập
trung sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống danh hiệu thi đua; hoàn thiện hệ
thống hình thức khen thưởng; hoàn thiện chế định về thẩm quyền và trách nhiệm
quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng; cải cách thủ tục hành chính trong thi
đua, khen thưởng. Cụ thể: Kế thừa đầy đủ
những ưu điểm của Luật hiện hành; bảo đảm bao quát hết các lĩnh vực, đối tượng
(khu vực công và khu vực tư); đồng thời thực hiện phân cấp mạnh về thẩm quyền
khen thưởng và đề nghị cấp trên khen thưởng cho các bộ, ban, ngành, địa phương,
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và cấp cơ sở, góp phần giải
quyết hạn chế, tồn tại trong tổ chức phong trào thi đua, công tác khen thưởng
và công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến. Đề cao
vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác thi đua, khen thưởng. Bổ sung nguyên tắc khen thưởng “thành tích
đến đâu khen thưởng đến đó”, hoàn chỉnh các loại hình khen thưởng và hệ thống
tiêu chuẩn các hình thức khen thưởng phù hợp; hạn chế tối đa tình trạng “tích
lũy thành tích, cộng dồn thành tích trong khen thưởng”; hạn chế trùng lặp,
chồng chéo trong khen thưởng; chú trọng khen thưởng tập thể ở cơ sở,
khen thưởng công nhân, nông dân, người lao động trực tiếp sản xuất, kinh doanh;
doanh nhân, doanh nghiệp, trí thức, nhà khoa học; quan tâm khen thưởng vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo; khắc phục cơ bản những hạn chế, vướng mắc về thẩm quyền, đối
tượng, tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục khen thưởng. Thực hiện cải cách hành
chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác khen thưởng.
II.
BỐ CỤC, NHỮNG ĐIỂM MỚI CƠ BẢN CỦA LUẬT THI ĐUA, KHEN THƯỞNG NĂM 2022
1. Về bố cục, phạm vi điều
chỉnh, đối tượng áp dụng của Luật
a) Về bổ cục:
Luật Thi đua, khen thưởng
năm 2022 có gồm 08 chương, 96 Điều, cụ thể như sau:
Chương I: Những quy định
chung, gồm 15 Điều
Chương II: Tổ chức thi
đua, danh hiệu thi đua và tiêu chuẩn danh hiệu thi đua, gồm 17 Điều
Chương III: Đối tượng,
tiêu chuẩn khen thưởng, gồm 44 Điều
Chương IV: Thẩm quyền
quyết định, trao tặng; thủ tục, hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu thi đua và
hình thức khen thưởng, gồm 9 Điều
Chương V: Quyền và nghĩa
vụ của cá nhân, tập thể, hộ gia đình trong thi đua, khen thưởng, gồm 02 Điều
Chương VI: Trách nhiệm của
cơ quan, tổ chức về thi đua, khen thưởng, gồm 05 Điều
Chương VII: Xử lý vi phạm
về thi đua, khen thưởng, gồm 01 Điều
Chương VIII: Điều khoản
thi hành, gồm 03 Điều.
b) Phạm vi điều chỉnh: Luật quy định về đối tượng, phạm vi, nguyên tắc, hình thức, tiêu chuẩn,
thẩm quyền, trình tự
và thủ tục thi đua,
khen thưởng (Điều 1 Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022).
c) Đối tượng áp dụng: Luật này áp dụng đối
với cá nhân, tập thể, hộ gia đình người Việt Nam; cá nhân, tập thể người Việt
Nam định cư ở nước ngoài; cá nhân, tập thể người nước ngoài (Điều 2 Luật Thi
đua, khen thưởng năm 2022).
- Quyền của cá
nhân, tập thể, hộ gia đình được quy định tại Điều 86 Luật Thi đua, khen thưởng
năm 2022, cụ thể như sau:
+ Cá nhân, tập thể, hộ gia đình được tham gia các
phong trào thi đua, được khen thưởng kèm theo hiện vật khen thưởng và hưởng lợi
ích khác theo quy định của pháp luật.
+ Cá nhân, hộ gia đình được tặng các danh hiệu
thi đua và hình thức khen thưởng có quyền lưu giữ, trưng bày và sử dụng hiện
vật khen thưởng. Tập thể được tặng các danh hiệu thi đua và hình thức khen
thưởng có quyền lưu giữ, trưng bày, sử dụng biểu tượng của các hiện vật khen
thưởng đó trên các văn bản, tài liệu chính thức của tập thể.
- Nghĩa vụ của cá nhân, tập thể, hộ
gia đình được quy định tại Điều 87 Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022, cụ thể
như sau:
+ Nghiêm chỉnh chấp hành các quy
định của pháp luật, của cơ quan, tổ chức, đơn vị trong công tác thi đua, khen
thưởng.
+ Phát huy thành tích đã đạt được, tuyên truyền,
phổ biến kinh nghiệm; bảo quản, lưu giữ các hiện vật khen thưởng.
2. Những quy định mới của Luật
Luật gồm 08 nhóm điểm mới chủ yếu sau đây
(1) Thực hiện
phân cấp, phân quyền mạnh hơn trong công tác thi đua, khen thưởng: (i) Bổ sung
quy định Bộ Quốc phòng, Bộ Công an quy định thẩm quyền công nhận danh hiệu “Lao
động tiên tiến”, “Chiến sĩ tiên tiến” (Điều 24), “Tập thể lao động tiên tiến”,
“Đơn vị tiên tiến” (Điều 28); (ii) Bổ sung quy định cụ thể thẩm quyền của Bộ
trưởng, Thủ trưởng các bộ, ban, ngành tặng danh hiệu “Tập thể lao động tiên
tiến”, “Chiến sĩ thi đua cơ sở”, “Lao động tiên tiến” hoặc ủy quyền công nhận
danh hiệu “Tập thể lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ thi đua cơ sở”, “Lao động
tiên tiến”cho cá nhân, tập thể thuộc cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc bộ, ban,
ngành không có tư cách pháp nhân (khoản 3 Điều 79); (iii) Bổ sung quy định về
thẩm quyền của người đứng đầu cơ quan được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phân công
tham mưu, giúp về thi đua, khen thưởng (khoản 3 và khoản 5 Điều 83); (iv) Bổ
sung trách nhiệm Người đứng đầu phát hiện cá nhân, tập thể, hộ gia đình có
thành tích để khen thưởng và đề nghị cấp trên khen thưởng (khoản 1 Điều 13), Cơ
quan làm công tác thi đua, khen thưởng (khoản 6 Điều 83), Cơ quan báo chí (khoản
4 Điều 13); (v) Phân cấp cho Bộ, ban, ngành, tỉnh theo hướng Luật quy định tiêu
chuẩn chung đối với các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng; đồng thời
giao Bộ, ban, ngành, tỉnh trên cơ sở quy định chung của Luật, căn cứ đặc điểm,
tình hình của từng đối tượng, lĩnh vực, ngành nghề để quy định cụ thể một số
nội dung được giao trong Luật, phù hợp với từng vùng miền, ngành nghề lĩnh vực.
(2) Thể hiện
rõ nguyên tắc thành tích đến đâu, khen đến đó và đề cao tính kịp thời của hình
thức khen thưởng theo công trạng và thành tích đạt được để khắc phục tình trạng
khen thưởng “tích lũy thành tích, cộng dồn thành tích” trước đây: Bổ sung
nguyên tắc “thành tích đến đâu khen
thưởng đến đó” (điểm c khoản 2 Điều 5) và được thể hiện trong các điều,
khoản của từng hình thức khen thưởng được quy định trong Luật về tiêu chuẩn,
thành tích đạt được và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể lập được thành tích. Đặc
biệt, Luật đã bổ sung quy định “hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ” là tiêu chuẩn có thể thay thế nếu không có sáng
kiến, đề tài, đề án (khoản 2 Điều 23).
(3) Đưa
phong trào thi đua hướng về cơ sở, gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa
phương, đơn vị, thiết thực, gắn với lợi ích của người trực tiếp tham gia thi
đua, hạn chế tính hình thức trong thi đua, bảo đảm thực hiện đồng bộ ở 4 khâu
(phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến): (i)
Bỏ quy định đăng ký thi đua là căn cứ xét tặng danh hiệu thi đua (Điều 7);
(ii) Bổ sung trách nhiệm của “Người đứng đầu” cơ quan, tổ chức, đơn vị
(khoản 1 Điều 13); (iii) Bổ sung danh hiệu xã, phường, thị trấn tiêu biểu (Điều
29); (iv) Sửa đổi, bổ sung tiêu chuẩn xét tặng một số danh hiệu thi đua (Điều
21, 22, 23, 24 và khoản 1 Điều 26); (v) Bổ sung tiêu chuẩn xét tặng Cờ thi đua
của Chính phủ đối với tập thể dẫn đầu cụm, khối thi đua do Hội đồng Thi đua -
Khen thưởng Trung ương tổ chức (khoản 2 Điều 25); tập thể dẫn đầu phong trào
thi đua chuyên đề ở cấp toàn quốc và cấp bộ, cấp tỉnh khi sơ kết, tổng kết
(khoản 2 Điều 26).
(4) Chú
trọng khen thưởng tập thể ở cơ sở, công nhân, nông dân, người lao động trực
tiếp, cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ…; quan tâm khen
thưởng cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo: (i) Bổ
sung nguyên tắc tại điểm d khoản 2 Điều 5; (ii) Bổ sung đối tượng dân quân
thường trực, dân quân tự vệ cơ động là đối tượng được xét tặng danh hiệu “Chiến
sĩ tiên tiến” (khoản 2 Điều 24); (iii) Bổ sung đối tượng khen thưởng Huân
chương Lao động các hạng (Điều 42, 43 và Điều 44), “Bằng khen của Thủ tướng
Chính phủ” (Điều 73), Bằng khen của Bộ, ban, ngành, tỉnh (Điều 74) là nông dân,
công nhân, người trực tiếp lao động, sản xuất, công tác; doanh nhân, doanh
nghiệp, trí thức, nhà khoa học; cá nhân, tập thể có đóng góp lớn vào sự phát triển
kinh tế, xã hội; ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ; công tác xã
hội, từ thiện nhân đạo; (iv) Bổ sung đối tượng được xét tặng danh hiệu “Nhà
giáo nhân dân”, “Nhà giáo ưu tú” cho đối tượng là cán bộ nghiên cứu giáo dục
(Điều 64); (v) Bổ sung đối tượng xét danh hiệu “Thầy thuốc ưu tú”, “Thầy
thuốc nhân dân” cho đối tượng là “hộ sinh” (khoản 1 Điều 65); (vi) Bổ sung đối
tượng xét danh hiệu “Nghệ sĩ nhân dân”, “Nghệ sĩ ưu tú” cho đối tượng là “người
sáng tạo tác phẩm văn hóa nghệ thuật” (khoản 1 Điều 66); (vii) Bổ sung cách
tính thời gian (nhân hệ số 2) làm tiêu chuẩn để xét tặng danh hiệu vinh dự nhà
nước đối với cán bộ y tế, giáo dục công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn (khoản 4 các điều 64 và 65).
(5) Giải
quyết những khó khăn, vướng mắc trong khen thưởng ở khu vực ngoài nhà nước và
kinh tế tư nhân: (i) Quy định cụ thể đối tượng khen thưởng Huân chương Lao
động các hạng (Điều 42, 43 và Điều 44), “Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ”
(Điều 73), Bằng khen của Bộ, ban, ngành, tỉnh (Điều 74) cho đối tượng là doanh
nhân, doanh nghiệp, trí thức, nhà khoa học; (ii) Bổ sung quy định nguyên tắc
xét tôn vinh và trao tặng giải thưởng cho doanh nhân, doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế khác (Điều 81); (iii) Bổ sung thẩm quyền trình khen thưởng đối với
doanh nghiệp do Chính phủ quy định (khoản 7 Điều 83).
(6) Quy định cụ thể khen thưởng đối với người nước ngoài có nhiều đóng góp
cho đất nước Việt Nam: Bổ sung đối tượng khen thưởng là cá
nhân người nước ngoài đối với Huân chương Hồ Chí Minh (Điều 35); cá nhân, tập
thể người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tập thể người nước ngoài đối
với Huân chương Độc lập các hạng (Điều 36, 37 và Điều 38), Huân chương Lao động
các hạng (Điều 42, 43 và Điều 44); quy định cụ thể đối tượng, tiêu chuẩn khen
thưởng Huy chương Hữu nghị (Điều 58).
(7) Bổ sung
hình thức khen thưởng kháng chiến “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang”
(khoản 2 Điều 96).
(8) Thực hiện cải cách thủ tục hành
chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý công tác thi đua, khen
thưởng: (i) Giảm số
lượng hồ sơ đề nghị khen thưởng Nhà nước (khoản 4 Điều 84); (ii) Bổ sung quy
định về hồ sơ, thủ tục khen thưởng theo thủ tục đơn giản (khoản 1 Điều 85);
(iii) Bổ sung quy định “ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi đua,
khen thưởng và trong hệ thống thi đua, khen thưởng” là một nội dung quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng (điểm e khoản 2 Điều 89).
III. CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN LUẬT
Trong quá trình lập hồ sơ
đề nghị xây dựng dự án Luật, Bộ Nội vụ đã thực hiện đánh giá tác động đối với
các chính sách dự kiến được sửa đổi, bổ sung, trong đó có tác động về kinh tế (gồm các tác động
tới mức chi về cơ sở vật chất, trang thiết bị, vật tư, tài sản công để thực
hiện giải pháp chính sách; tác động tới các khoản chi trả trực tiếp của Nhà
nước cho các danh hiệu thi đua; tác động tới chi phí tuân thủ khi giải quyết và
thực hiện thủ tục hành chính; tác động tới
các chi phí liên quan đến kinh phí, ngân sách, chi phí của xã hội và những vấn
đề phát sinh khác khi tổ chức thực hiện trao tặng danh hiệu thi đua); Tác động về
thủ tục hành chính (gồm tác động tới hoạt động quản
lý Nhà nước đối với ngành, lĩnh vực liên quan đến việc thực hiện chính sách;
tác động tới việc đảm bảo quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức khi thực hiện thủ tục hành chính). Các nội dung sửa đổi, bổ
sung của dự án Luật này chủ yếu sửa đổi các quy định liên quan đến thẩm quyền,
điều kiện, tiêu chuẩn, hồ sơ thủ tục hành chính và sửa đổi một số quy định khác
trên cơ sở kế thừa các quy định của Luật hiện hành đang được triển khai thực
hiện ổn định. Vì vậy, không có tác động về nguồn lực bảo đảm thi hành luật.
Về việc bổ sung danh hiệu thi đua “Xã tiêu biểu, Phường thị trấn, tiêu biểu”; hình thức khen thưởng “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” vào
dự án Luật, Bộ Nội vụ đã thực hiện đánh giá tác động chính sách khi bổ sung
danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng này và xin ý kiến Bộ Tài chính. Theo ý
kiến của Bộ Tài chính, việc bổ sung thêm danh hiệu “Xã tiêu biểu, Phường, Thị trấn tiêu biểu”
không phát sinh thêm nhiều kinh phí khen thưởng; đối với hình thức “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang”
theo quy định tại khoản 3 Điều 96 của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022: Thực
hiện tặng và truy tặng “Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang” đối với Thanh
niên xung phong có thành tích trong các cuộc kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc, hoàn
thành nhiệm vụ, trung thành với cách mạng, có thời gian tại ngũ từ 02 năm trở
lên. Tại Khoản 2 Điều 11
của Luật Thi đua, khen thưởng quy định Quỹ thi đua, khen thưởng: Quỹ thi đua, khen thưởng được dùng để chi tổ
chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng; chi thưởng đối với danh hiệu thi
đua, hình thức khen thưởng cho thành tích đạt được trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; chi in, làm hiện vật khen thưởng hoặc tặng phẩm lưu niệm cho cá nhân, tập
thể, hộ gia đình. Vì vậy, chỉ phát sinh về nguồn lực giải quyết thủ tục
hành chính để khen thưởng 01 lần cho đối tượng đủ tiêu chuẩn và không phát sinh
về tiền thưởng.
Do vậy, điều kiện đảm bảo triển khai thi hành
Luật sau khi được thông qua, về cơ bản các cơ quan, tổ chức, cá nhân hiện đang
sử dụng nguồn lực tài chính và nguồn nhân lực, cơ sở vật chất hiện hành.
IV. DỰ BÁO TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH CỦA LUẬT ĐẾN NGƯỜI DÂN VÀ
XÃ HỘI
Với các chính sách mới nêu trên, Luật Thi đua,
khen thưởng năm 2022 kỳ vọng sẽ tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước và công
tác khen thưởng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ
động hội nhập quốc tế; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn
dân tộc và cả hệ thống chính trị; nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về công tác thi đua, khen thưởng để công tác thi đua, khen
thưởng đi vào thực chất, thực sự là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của từng bộ, ban, ngành, địa
phương và của đất nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
V. TRIỂN KHAI HOẠT ĐỘNG THI HÀNH LUẬT
1. Về ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành Luật
a. Các văn bản quy định chi tiết thuộc
thẩm quyền ban hành của Chính phủ
Ngày 01/8/2022 Thủ tướng Chính phủ đã
có Quyết định số 917/QĐ-TTg ban hành Danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn
thảo văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, nghị quyết được Quốc hội khóa
XV thông qua tại Kỳ họp thứ 3, trong đó phân công 6 Bộ chủ trì xây dựng 10 Nghị
định quy định chi tiết 37 điều được giao trong Luật; giao cho Bộ, ban, ngành,
tỉnh trong phạm vi quyền hạn của mình ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng
dẫn cụ thể 14 điều được giao trong Luật.
Hiện nay, Bộ Nội vụ đang
triển khai xây dựng 02 Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Thi đua, khen thưởng, trong đó 01 Nghị định quy định chi tiết 28 Điều được
giao trong Luật Thi đua, khen thưởng (gồm các quy định về
khen thưởng quá trình cống hiến; khen thưởng cho đối tượng khác; thẩm quyền
công nhận danh hiệu “Đơn vị quyết thắng”, “Tập thể lao động xuất sắc” trong
Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; Thủ tục, hồ sơ khen thưởng; quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng; tổ chức và hoạt động của Hội đồng thi đua, khen
thưởng; quỹ thi đua, khen thưởng; thủ tục hủy bỏ, tước, phục hồi danh hiệu thi
đua, hình thức khen thưởng, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân người Việt Nam khi
nhận các hình thức khen thưởng của nước ngoài; việc xét tôn vinh và trao tặng giải thưởng cho doanh nhân, doanh nghiệp; quy định mẫu huân chương,
huy chương, huy hiệu, kỷ niệm chương; mẫu bằng, khung, hộp, cờ của các hình
thức khen thưởng và danh hiệu thi đua; quản lý, cấp phát, cấp đổi, cấp lại, thu
hồi hiện vật khen thưởng …) (quy định chi tiết các điều: Khoản 5 Điều 11;
Khoản 2 Điều 12; Khoản 2 Điều 14; Khoản 4 Điều 25; Khoản 7 Điều 34;
Khoản 6 Điều 35; Khoản 5 Điều 36; Khoản 5 Điều 37; Khoản 5 Điều 38; Khoản 4 Điều 39; Khoản 4 Điều 40; Khoản 4 Điều 41; Khoản 7 Điều 42; Khoản 7 Điều 43; Khoản 7 Điều 44; Khoản 3 Điều 45; Khoản 3 Điều 46; Khoản 3 Điều 47; Khoản 2 Điều 51; Khoản 2 Điều 53; Khoản 5 Điều 79; Khoản 3
Điều 81; Khoản 3 Điều 82; Khoản 7 Điều 83; Khoản 7 Điều 84; Khoản 2 Điều 85; Khoản 5 Điều 90; Khoản 9 Điều 93) và 01 Nghị
định Quy định chi tiết về việc khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến và
trình tự, thủ tục xét tặng, truy tặng Huy chương Thanh niên xung phong vẻ vang
(khoản 3 Điều 96).
Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai xây dựng Nghị định quy định chi tiết việc xét tặng danh hiệu “Nhà giáo Nhân dân”, “Nhà giáo Ưu tú” (quy định chi
tiết Khoản 6 Điều 64).
Bộ Khoa học
và Công nghệ được giao chủ trì 01 Nghị định quy định chi tiết về “Giải thưởng
Hồ Chí Minh”, “Giải thưởng Nhà nước” về khoa học công nghệ (Khoản 3 Điều 68).
Bộ Công Thương được giao chủ trì 01 Nghị định quy
định chi tiết việc xét tặng danh hiệu “Nghệ Nhân nhân dân”, “Nghệ nhân Ưu tú”
trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ (Khoản 5 Điều 67).
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch được giao chủ trì
04 Nghị định, gồm: 01 Nghị định về xét tặng danh hiệu “Nghệ sĩ Nhân dân”, “Nghệ
sĩ Ưu tú”; (Khoản 5 Điều 66); 01 Nghị định quy định chi tiết việc xét tặng
“Giải thưởng Hồ Chí Minh”, “Giải thưởng Nhà nước” về văn học nghệ thuật (Khoản
3 Điều 68); 01 Nghị định quy định chi tiết việc xét tặng danh hiệu “Nghệ Nhân nhân
dân”, “Nghệ nhân Ưu tú” đối với 7 loại hình văn hóa phi vật thể (Khoản 5 Điều 67); 01 Nghị định quy định chi tiết về khung tiêu chuẩn, quy trình
xét danh hiệu “Gia đình văn hóa”; thôn, tổ dân phố văn hóa; xã, phường, thị
trấn tiêu biểu (Khoản 2 Điều 29, Khoản 2 Điều 30, Khoản 2 Điều 31).
Bộ Y tế được giao chủ trì 01 Nghị định quy định chi tiết việc xét tặng danh hiệu “Thầy thuốc Nhân dân”,
“Thầy thuốc Ưu tú” (quy định chi tiết Khoản 6 Điều 65).
b. Các văn bản quy định chi tiết thuộc
thẩm quyền của bộ, ban, ngành, tỉnh
Luật Thi đua, khen thưởng giao bộ, ban, ngành,
tỉnh quy định chi tiết, hướng dẫn 14 điều, cụ thể như sau:
- Bộ, ban, ngành, tỉnh
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể
tiêu chuẩn tặng xét danh hiệu
“Lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ tiên tiến” (Khoản 4 Điều 24).
- Bộ Quốc phòng quy định
chi tiết tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu “Chiến sĩ tiên tiến” đối với dân quân thường trực, dân quân tự vệ cơ
động (Khoản 4 Điều 24).
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hướng dẫn chi tiết
tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu “Lao động tiên tiến” để tặng cho công nhân, nông dân, người
lao động (Khoản 6 Điều 24).
- Bộ, ban,
ngành, tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, quy định chi tiết,
hướng dẫn cụ thể đối tượng, tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu cờ thi đua của Bộ, ban,
ngành, tỉnh (Khoản 3 Điều 26).
- Bộ, ban, ngành, tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, quy định chi
tiết, hướng dẫn cụ thể đối tượng, tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu “Tập thể lao động xuất sắc”, “Đơn vị Quyết thắng” (Khoản 3 Điều 27).
- Bộ, ban, ngành, tỉnh trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể đối tượng,
tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu “Tập thể lao động tiên tiến”, “Đơn vị tiên tiến”
(Khoản 3 Điều 28).
- Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh hướng dẫn chi tiết tiêu chuẩn và việc xét tặng danh hiệu xã,
phường, thị trấn tiêu biểu trên cơ sở khung tiêu chuẩn do Chính phủ quy định
(Khoản 2 Điều 29).
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hướng dẫn chi tiết
tiêu chuẩn và việc xét tặng danh hiệu thôn, tổ dân phố văn hóa trên cơ sở khung
tiêu chuẩn do Chính phủ quy định (Khoản 2 Điều 30).
- Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh hướng dẫn chi tiết tiêu chuẩn và việc xét tặng danh hiệu “Gia
đình văn hóa” trên cơ sở khung tiêu chuẩn do Chính phủ quy định (Khoản 2 Điều
31).
- Cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp quy định danh hiệu thi đua, tiêu chuẩn
danh hiệu thi đua của các tổ chức này (Khoản 1 Điều 32).
- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định
danh hiệu thi đua, tiêu chuẩn danh hiệu cờ thi đua của quân khu, quân đoàn,
quân chủng, binh chủng, tổng cục và tương đương thuộc Bộ Quốc phòng, Ban Cơ yếu
Chính phủ (Khoản 2 Điều 32).
- Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định danh
hiệu thi đua, tiêu chuẩn danh hiệu cờ thi đua của đại học quốc gia (Khoản 3
Điều 32).
- Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo hoặc người
đứng đầu Bộ, ngành quản lý nhà trường, cơ sở giáo dục quy định danh hiệu thi
đua, tiêu chuẩn danh hiệu thi đua đối với cá nhân, tập thể và người đang công
tác, học tập tại nhà trường, cơ sở giáo dục khác theo quy định của pháp luật về
giáo dục, đào tạo (Khoản 4 Điều 32).
- Bộ, ban, ngành, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cơ
quan trung ương của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
có tổ chức đảng đoàn hoặc có tổ chức đảng thuộc Đảng bộ khối các cơ quan trung
ương quy định tên kỷ niệm chương, đối tượng và tiêu chuẩn tặng kỷ niệm chương
(Khoản 2 Điều 71).
- Bộ, ban, ngành, tỉnh trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể tiêu chuẩn
xét tặng bằng khen của Bộ, ban, ngành, tỉnh đối với cá nhân, tập thể, hộ gia đình
thuộc thẩm quyền quản lý (Khoản 6 Điều 74).
- Bộ, ban, ngành, tỉnh trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể tiêu chuẩn
xét tặng giấy khen đối với cá nhân, tập thể, hộ gia đình thuộc thẩm quyền quản
lý (Khoản 2 Điều 75).
- Cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội quy định việc khen thưởng bằng hình thức bằng khen
của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở cấp tỉnh, giấy khen của tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (Khoản 1 Điều 76).
- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định việc khen
thưởng bằng hình thức bằng khen của quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh
chủng, tổng cục và tương đương thuộc Bộ Quốc phòng, Ban Cơ yếu Chính phủ (Khoản
2 Điều 76).
- Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định việc
khen thưởng bằng hình thức bằng khen của đại học quốc gia (Khoản 3 Điều 76).
- Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo hoặc người đứng
đầu Bộ, ngành, tổ chức quản lý nhà trường, cơ sở giáo dục quy định việc khen
thưởng bằng hình thức giấy khen đối với cá nhân, tập thể người đang học tập tại
nhà trường hoặc cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân (Khoản 4
Điều 76).
- Bộ Quốc phòng, Bộ Công an quy định thẩm quyền
công nhận danh hiệu “Đơn vị tiên tiến”, “Tập thể lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ
thi đua cơ sở”, “Lao động tiên tiến”, “Chiến sĩ tiên tiến” trong Quân đội nhân
dân, Công an nhân dân và dân quân thường trực, dân quân tự vệ cơ động (Khoản 5 Điều 80).
- Bộ, ban, ngành, tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, quy định chi
tiết, hướng dẫn cụ thể số lượng hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng thuộc thẩm quyền xem xét, quyết định
của Bộ, ban, ngành, tỉnh (Khoản 6 Điều 84).
2. Về công tác tổ chức tuyên truyền,
phổ biến Luật
Thời gian tới, Bộ Nội vụ sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ ban hành kế hoạch
triển khai thi hành Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022. Trong đó, từ năm 2022
và các năm tiếp theo, Bộ Nội vụ sẽ tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật, các văn bản quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành cho cán bộ, công chức và nhân dân; các bộ, ban, ngành và các đơn vị có liên quan phối hợp với Bộ Nội vụ tổ
chức tuyên truyền, phổ biến Luật, các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành cho lãnh đạo, cán bộ làm công tác quản lý, chuyên môn, trực tiếp thực
hiện công tác thi đua, khen thưởng; Bộ Thông
tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật trung ương,
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo, hướng dẫn
các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình ở trung ương và địa phương tuyên
truyền, phổ biến Luật, các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành; Đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tổ chức thực
hiện kế hoạch tuyên truyền, phổ biến Luật, các văn bản quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành cho các hội viên và quần chúng nhân dân.
Đối với các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy
ban nhân dân các cấp và cơ quan, tổ chức có liên quan tổ chức tuyên truyền, phổ
biến Luật và văn bản quy định chi tiết thi hành bằng hình thức phù hợp với từng đối tượng, điều
kiện, tình hình thực tế của từng cơ quan, đơn vị, địa
phương./.